Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2020

ROTAVIRUS

Năm 1973, Rota virus được phát hiện lần đầu tiên tại Châu Úc trên mẫu sinh thiết tá tràng của trẻ em bị tiêu chảy cấp và sau đó đã tìm thấy trong phân của bệnh nhân tiêu chảy ở nhiều nơi trên thế giới.

1. Đại cương về Virus Rota:

Nguồn ảnh Internet

Hình dạng: Bánh xe.
Kích thước: 50 - 60 nm hoặc từ 60 - 70 nm tùy loại vỏ.
Virus Rota gồm 2 phần:
- Nhân: 11 mảnh kép ARN.
- Vỏ: 32 capsomer xếp theo trục đối xứng chia làm 2 lớp vỏ trong và lớp vỏ ngoài. Lớp vỏ trong R mang tính kháng nguyên đặc hiệu nhóm, lớp vỏ S mang tính kháng nguyên đặc hiệu type.
Virus Rota có 2 loại kháng nguyên:
- Kháng nguyên chung cho tất cả các type huyết thanh nằm ở lớp vỏ trong.
- Kháng nguyên đặc hiệu nằm ở lớp vỏ ngoài.
Hiện nay người ta đã tìm ra 6 type virus Rota khác nhau gây bệnh cho người và còn đang tiếp tục xác định các type huyết thanh khác.
Virus Rota bị bất hoạt bởi EDTA, Formaldehide và một số hóa chất tẩy uế khác nhưng không bị bất hoạt bởi Clo. Do đó nước khử khuẩn bằng Clo vẫn có thể chứa virus Rota hoạt động và lây truyền bệnh. Virus Rota bị bất hoạt ở pH <3 hoặc pH> 10.

2. Khả năng gây bệnh:

Virus Rota gây bệnh theo đường tiêu hóa.


Ngoài ra, còn kèm theo sự mất men đường đôi Disaccharidase, làm giảm hấp thu đường đôi trong thức ăn (chủ yếu là lactose). Sự phục hồi sẽ xảy ra sau khi các nhung mao ruột tái sinh và liên bào nhung mao ruột trưởng thành.
Sau thời gian ủ bệnh 1 - 3 ngày, bệnh bắt đầu xuất hiện với tiêu chảy toàn nước, nôn mửa và sốt nhẹ. Triệu chứng nôn mửa là dấu hiệu đặc biệt của tiêu chảy do virus Rota. Bệnh tiêu chảy kéo dài 5 - 8 ngày, nếu nhẹ thì tự nhiên khỏi, nếu nặng và không được điều trị sớm thì có thể dẫn đến tử vong. Phân tiêu chảy do virus Rota thường lỏng, không có máu, ít đàm, hiếm khi tìm thấy bạch cầu.
Trong sữa mẹ có kháng thể IgA với nồng độ cao vào tháng thứ 6 - 9, đặc biệt là ở các bà mẹ bị nhiễm virus Rota trước đó. Nghiêng cứu cho thấy trẻ em bú sữa mẹ ít tiêu chảy hơn bú bình. Ngoài ra còn có kháng thể IgG và IgM được tìm thấy với tỉ lệ rất cao ở trẻ từ 6 - 24 tháng tuổi, kể cả trẻ lớn và người lớn.
Bệnh xảy ra ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt phổ biến ở những trẻ 6 tháng đến 3 tuổi. Bệnh thường xảy ra vào mùa khô.

3. Phòng bệnh và điều trị: 

Sử dụng nước sạch, vệ sinh ăn uống, rửa tay trước khi ăn,...
Đã có Vaccin phòng bệnh. Vaccin sống giảm độc lực có tác dụng tốt hơn vaccin bất hoạt. Thời gian tạo đáp ứng miễn dịch là 13 - 28 ngày sau khi chủng ngừa.
Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu.

Nguồn thông tin chọn lọc từ sách

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

VIBRIO CHOLERAE - PHẨY KHUẨN TẢ

Vibrio cholerae thuộc họ Virbrionaceae , giống Vibrio . Loài Vibrio cholerae có 2 type sinh học. Type thường gây bệnh cho người là Vibrio ...

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Facebook Themes